Là câu chuyện về những năm cuối đời của một nhà danh họa, nhà điêu khắc, kiến trúc sư bậc thầy nước Ý, cùng học trò đến sống trong một lâu đài bên bờ sông Loire, theo lời mời của đức vua Pháp… Là câu chuyện về “mối tình” của ông với người đàn bà giúp việc, không tên gọi, không tuổi tác, với quá khứ bí ẩn, luôn nhẫn nại bên ông trong sự lặng im tuyệt đối… Và là câu chuyện về một NGUYỆN ƯỚC, sau bao dằn vặt trăn trở, sau bao nghĩ suy do dự, đã được giãi bày, một nguyện ước thật xúc động nhưng quá lạ kỳ. Tác phẩm đã giành được Giải thưởng France-Télévision dành cho tiểu thuyết, Giải thưởng của hội đồng giám khảo Jean Giono, Giải thưởng của Đài phát thanh truyền hình Bỉ do thính giả bình chọn. *** Lời khen tặng dành cho Nguyện ước “Michèle Desbordes không viết về hội họa, mà vẽ nên bằng ngôn từ một bức tranh tuyệt mỹ” - Télérama “Mang nét tinh tế như âm nhạc Schubert” - L’Express “Giọng văn trong trẻo đến tinh khôi nhưng vẫn cô đặc, tràn đầy sự sống và cảm xúc” - La Vie “Một câu chuyện thống thiết, một văn phong hết mực kiểu cách, đến tận trang cuối” - Le Nouvel Observateur “Hoàn hảo về ngôn ngữ và văn phong” - L’Humanité *** Trích Nguyện ước [...] Mùa hè đến, ngày lại ngày họ ngắm nhìn ánh sáng, màu xanh bình lặng, huy hoàng.
Trên các con đường những người đàn bà trở về vai mang các bó cỏ, họ bước đi gần bên đám la với những ôm cỏ đầy đập bên cạnh sườn, họ tần tảo bên sườn đồi. Bà kể về mùa hè và lúa mì đang vàng ruộm. Về ánh sáng trên dòng sông. Ông kể về ánh sáng, về bóng nắng chẳng hề giống nhau, về Toscana và về những đợt nóng dữ dội, về những mùa hè thời thơ ấu. Ông kể lại bóng nắng rực rỡ dưới các tán lá, những đoàn người ngựa trên những quả đồi và những ngọn núi khi ông trở về đất nước, những thung lũng sâu thẳm và những con đường mòn dốc đứng, từ xa ông thấy những bụi tầm xuân và những hàng nho, những mái nhà màu hồng vây quanh gác chuông. Mẹ ông đang đợi, bà đã chuẩn bị bữa ăn và trải khăn bàn, bà đẹp như màn đêm tháng Sáu, cái đêm kẻ đó cưỡng hiếp bà trên đống cỏ khô trong kho thóc, ser Piero công chứng viên trẻ, con cháu gia đình công chứng viên, là một tay chơi gái nổi danh, đến nỗi không còn biết khi hắn ôm ghì một người đàn bà thì đó là vì hôn lễ tương lai hay chỉ vì cái lạc thú nhất thời, thô bạo và quên hết những chuyện còn lại, đơn độc trong cái trang trại trên đồi ấy cô gái quê đã sinh con, kín đáo và lén lút, âm thầm lo sợ như một con chó cái lúc đẻ con, ông nhìn mẹ trong tầng váy xanh, ánh sáng gắt màu xanh lam chiếu rõ làn da thịt màu nâu trong những đêm hè, và mỗi khi nhìn mẹ ông lại nhớ về quá khứ, đằng sau những ánh mắt và các mùi hương kiếm tìm sự ấm áp và mùi hương trên da mẹ, những hình ảnh, những hình ảnh, một nụ cười một ngày nào đó, biết nói sao đây, một nụ cười mà, điều này ông vẫn còn nhớ, rằng khi đó ông đã hình dung tới tuổi già và cái chết của mẹ, mẹ sẽ chết, có những ngày ông chỉ hình dung về điều đó và thời gian thì cứ trôi, trôi đi đến không cùng, ông nhẩm tính chắc cũng đã gặp lại mẹ độ hai chục lần sau khi rời khỏi Toscana, hai chục lần bà hẳn đã mong ngóng ông trở về trên con đường mòn giữa những rặng nho và giang tay đón ông, hai chục lần từ Venezia, Roma và Milano ông về ngửi lại mùi hương trên da mẹ và trên quần áo mẹ, năm này qua năm khác mùi hương ấy đã thay đổi, ông biết thế, thay đổi cho tới khi một ngày kia trở thành mùi hương của sự mệt mỏi, chua cay và mùi u sầu của những bà già nhỏ bé yếu mòn vì cuộc sống giờ chẳng còn gì để mất cũng như để sợ hãi, cả cái chết và cả sự ruồng bỏ không thể tha thứ. Ông bảo ông thích mùa hè, ông những muốn mở rộng khuôn viên, vẽ các vòm cung phía cuối những khoảng vườn treo, trồng cây ở đó để nhìn chúng lớn dần, những cây bách giống như phía kia trên các quả đồi, những cây dương cao lớn và cả những cây sồi xanh thẫm nữa, ông vẽ các lối đi về phía sông và ông thấy bà ngược lên các lối đi váy tung trong gió, rồi ông bỏ lại khuôn viên, bỏ lại những ngày mai ấy, ông vẽ các hình đầu người tóc xoăn, những con mèo, những bàn tay bình thản xòe ra, nghĩ đến cái chết đang tới, đến những năm cuối đời sẽ ra sao. Trò Salaê đã ra đi, ông tiễn trò đến tận Gué-Péan trước bìa rừng, một sáng vào lúc bình minh bà nhìn thấy họ băng qua các khoảng vườn treo cùng với những con ngựa, đi qua vòm mái và xa dần trên con đường men vách đá, họ đã xuống ngựa ở cửa những cánh rừng thông, trước các thôn làng từ xa đã ánh lên trong nắng trưa.
Họ nhìn nhau lần cuối, sau đó, bản thân ông có lẽ cũng chẳng biết là bao lâu, ông dõi theo y xa dần trên lưng ngựa, con ngựa đen nhánh y như con ngựa mà y đã đi từ nước Ý tới đây, ông vẫn bất động trên lưng ngựa đợi y khuất dạng, đến khi y chỉ còn là một điểm chấm khó nhận dạng phía những sườn đồi nhưng giữa các tầng lá đôi lúc ông vẫn nhận đoán được, rồi ông không còn nhìn thấy y nữa. Khi ông đến bên cửa sổ ông thấy các vách đá và những bức tường của tòa lâu đài, phía sau ông đoán là dòng sông và ánh mặt trời trên cát sáng, ông nghĩ đến tất cả những xứ sở đã đi qua để tới được nơi đây, ông nghĩ đến những điều mà ông không còn nhìn thấy nữa, tất cả đều đang co lại, và sở thích, tình yêu, đều đã ra đi. Vẻ dữ dội của mọi thứ. Ông tự nhủ rằng mình không bất hạnh. Việc đã xong và bàn đã dọn ra bà ngồi xuống, có lúc bà ngồi đối diện ông trước cửa sổ hay ống khói, bà đợi quay chín xong thịt gia cầm, hay khi chính họ đã sẵn sàng ăn tối, lửa làm ánh lên đôi mắt bà, tô màu khuôn mặt, làn da vàng ruộm đang héo tàn nơi mí mắt. Bà nhìn đôi bàn tay mình hay nhìn qua cửa sổ những cây hoàng dương đã xén tỉa, một cách dịu dàng mặt trời lướt nhẹ qua chúng. Hăng hăng và ấm áp, hiền hòa, mùi hương ùa vào căn bếp. Bà ở đó mà như không ở đó, ông không biết bà đang nghĩ gì. [...]