Lịch Sử Phật Giáo - Hành Trình Từ Cội Nguồn Ấn Độ Đến Các Vùng Đất Châu Á
“Lịch sử Phật giáo - Hành trình từ cội nguồn Ấn Độ đến các vùng đất châu Á” là một tác phẩm quan trọng của Giáo sư Andrew Skilton (Đại học Oxford), một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về Phật học. Cuốn sách mang đến một cái nhìn toàn diện và súc tích về hành trình kéo dài hàng thiên niên kỷ của một trong những tôn giáo vĩ đại nhất thế giới. Từ khởi nguồn khiêm tốn ở Ấn Độ cho đến sự lan tỏa mạnh mẽ khắp châu Á, Skilton đã khéo léo phác họa bức tranh lịch sử đầy đủ, làm nổi bật cả những cột mốc quan trọng về cả giáo lý và những biến đổi văn hóa.
Cuốn sách được chia làm 2 phần với 28 chương, trong đó:
Phần I: Phật giáo ở Ấn Độ (18 chương)
Bắt đầu với bối cảnh cổ đại và cuộc đời Đức Phật, làm rõ các giáo lý cốt lõi như Tứ Thánh Đế và Tám Thánh Đạo. Sách mô tả sự hình thành Tăng đoàn sơ khai, các hội nghị kết tập kinh điển, và sự phân hóa thành các trường phái Phật giáo như Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Skilton cũng trình bày về Tam Tạng Kinh Điển và A-tỳ-đạt-ma tạng. Một bước ngoặt lớn là sự xuất hiện của Đại thừa (Mahāyāna) với lý tưởng Bồ tát, các kinh điển quan trọng, và những trường phái như Trung quán tông, Duy Thức tông, cùng với học thuyết Như Lai Tạng và sự phát triển của Mật tông/Kim Cương thừa. Phần này kết thúc với phân tích về sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ.
Phần II: Phật giáo truyền bá ngoài Ấn Độ (10 chương)
Mở rộng tầm nhìn ra khỏi Ấn Độ để đến với hành trình truyền bá, phát triển của Phật giáo ở các nước Á châu khác. Tác giả bắt đầu với Sri Lanka và Đông Nam Á, sau đó dẫn người đọc đến với Trung Á và Kashmir, hai trung tâm Phật giáo cổ xưa và quan trọng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn phân tích sự du nhập và biến đổi của Phật giáo tại Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và một số nước Á châu khác, giúp độc giả có được cái nhìn toàn diện về sự lan truyền và phát triển của Phật giáo trên khắp châu lục.
Xuyên suốt cuốn sách, tác giả không chỉ đơn thuần liệt kê các sự kiện lịch sử mà còn chú trọng vào sự phát triển của các khái niệm và học thuyết Phật giáo. Tác giả giải thích rõ ràng các giáo lý cốt lõi như Tứ Thánh Đế, Tám Thánh Đạo, Duyên Khởi, và sau đó đi sâu vào những phức tạp hơn của các trường phái Đại thừa như Trung quán tông và Duy thức tông. Cách tiếp cận này giúp người đọc hiểu được lý do và cách thức các trường phái và giáo lý khác nhau xuất hiện, chứ không chỉ đơn thuần là chúng đã tồn tại.
Bên cạnh đó, Skilton còn mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về khả năng thích nghi phi thường của Phật giáo, cho phép tôn giáo này bén rễ và phát triển trong vô số nền văn hóa khác nhau. Mặc dù nội dung có tính học thuật và phức tạp, nhưng sách sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc và dễ hiểu. Vì thế cuốn sách là một tài liệu học thuật không thể thiếu cho bất cứ ai muốn hiểu rõ về hành trình và tầm ảnh hưởng vĩ đại của Phật giáo qua các thời đại.
Hình ảnh trên bìa sách là hang động điêu khắc Phật giáo Ajanta ở Ấn Độ.
Sách thuộc nhóm sách Tôn giáo – Phật giáo của Omega+ và nằm trong dự án “Phật Học Tinh Hoa thế giới”.
Dự án “Phật Học Tinh Hoa Thế giới”: dự án nhằm tuyển chọn và dịch các tác phẩm hàn lâm có tính cập nhật từ các nhà nghiên cứu Phật học uy tín tại các đại học lớn như Oxford, Cambridge, Harvard, Columbia, Yale, Princeton, Chicago, Berkeley, Stanford... Dự án mong muốn truyền tải tri thức Phật giáo đến đông đảo bạn đọc và góp phần xây dựng nền tảng tri thức học thuật Phật giáo ở Việt Nam.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Andrew Skilton (sn.1957). Skilton bắt đầu quan tâm đến Phật giáo một vài năm trước khi xuất gia năm 1979 với pháp danh Dharmacari Sthiramati. Ông đã đóng góp vào việc phát triển một trung tâm Phật giáo tại Croydon, Anh, trước khi chuyển Bristol và đề xướng các hoạt động ở Trung tâm Phật giáo Bristol năm 1980. Ông lấy bằng đại học đầu tiên, chuyên ngành Thần học và Nghiên cứu tôn giáo, năm 1988 ở Đại học Bristol, sau đó chuyển đến Oxford vào năm 1991 để hoàn thành luận án Tiến sĩ. Ông cũng từng dịch sang tiếng Anh một số tác phẩm Phật giáo như Bodhicaryāvatāra (Nhập Bồ-tát hạnh luận) và Nagananda (Niềm vui của các Naga).
TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY
“Phật giáo tự mô tả mình dưới nhiều hình thức. Trong số các thuật ngữ gần như đồng nghĩa, āgama (hay A-hàm) gợi mở cho tôi nhiều điều nhất. Thuật ngữ này được sử dụng để nói về hệ thống di sản bằng văn bản, đặc biệt là những tuyển tập lời dạy của Đức Phật, cũng được đa số các tông phái Phật giáo Ấn Độ dùng tiếng Phạn để ghi chép gọi là āgama. Theo nghĩa đen, āgama có nghĩa là “những gì được truyền lại”, mang ý nghĩa về một điều gì đó được truyền thừa cho đến ngày nay bởi một truyền thống đang tồn tại, và như vậy, với tôi, nó không chỉ có hàm ý về một văn bản cụ thể, mà còn là các phương pháp được tiếp nhận để giải thích, hiểu và ứng dụng các văn bản đó – thứ mà họ cũng được truyền bá bởi các giáo đoàn Phật giáo và đến lượt mình lại truyền bá chúng đi. Ở nghĩa rộng hơn kể trên, tôi nhận thấy thuật ngữ này có tính gợi mở nhất, bởi nó nhấn mạnh rằng Phật giáo là một tôn giáo được truyền thừa, chuyển giao qua 25 thế kỷ bởi nhiều thế hệ Phật tử nối tiếp nhau.
Tuy có sự kế thừa như vậy, nhưng truyền thống Phật giáo vẫn rất đa dạng, và đây chính là một trong những lý do tạo nên hứng thú để tôi viết tác phẩm này. Kể từ lần đầu tiếp xúc sâu với giáo lý Phật giáo khoảng 18 năm về trước, tôi đã cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, cuốn hút, chán nản và cả bối rối trước sự đa dạng này – các cung bậc cảm xúc mà bản thân tôi sẽ không đi đo lường về mức độ. Đây không chỉ là nguồn cảm hứng cho việc cố gắng nhận ra những quan điểm trọng tâm của Phật giáo, mà còn là sự hứng thú, sảng khoái, và đôi khi cảm thấy nghi ngờ về một số mâu thuẫn thực sự và rõ ràng. Về lâu dài, nó đã mang lại sự tò mò lớn.”
“Cũng như các câu chuyện lịch sử khác, lịch sử Ấn Độ thời kỳ đầu bị chi phối bởi một số đặc điểm địa lý nhất định. Ở phía bắc của lục địa này là rặng núi Himalaya, sừng sững như một rào cản địa chất khổng lồ với các nền văn hóa phía bắc và phía đông. Lối duy nhất để vượt qua rào cản này được tìm thấy ở rặng núi xuyên qua Afghanistan, phía tây-bắc; ngoài ra còn có hai lưu vực của hai con sông lớn, đó là sông Ấn (Indus) phía tây-bắc và sông Hằng (Ganges) phía đông-bắc của lục địa này, mỗi lưu vực tạo thành một môi trường màu mỡ và an toàn để có thể hỗ trợ cho một nền văn minh phức tạp.”
“Chúng ta có bằng chứng rõ ràng về ba cách tu hành được các khất sĩ áp dụng để nhận ra chân lý cho chính mình.3 Có những người tập trung vào việc chứng đắc thần thông và đã phát triển nhiều kỹ thuật thiền định, trong đó tâm thức đạt đến tĩnh lặng và được kiểm soát nhờ vào việc thực hành thiền quán trên một đối tượng đơn thuần. (Ở đây một số người xác nhận có sự liên quan với các cách thực hành bản địa trước lúc người Ārya đến định cư). Mặt khác, lại có người tập trung vào việc nhận ra vô thường và chứng đắc thần thông kỳ diệu thông qua việc quán chiếu thâm sâu trong bản chất, và thậm chí cả tên gọi, của nguyên lý tuyệt đối nằm đằng sau vũ trụ. (Điều này có lẽ kế thừa từ tư tưởng Vệ-đà chính thống). Ngoài ra còn có bên thứ ba, quan tâm nhiều hơn đến sự thanh tịnh và nhiễm ô của cơ thể con người. Họ đã áp dụng nhiều hình thức khổ hạnh khác nhau để thanh lọc tâm và đạt được điều tương tự, từ đó có thể làm nhẹ bớt gánh nặng uế nhiễm và đạt được sự thăng hoa trong thế giới tâm linh.”
“Tại thời điểm Đức Phật đản sinh, ở chân rặng Himalaya vẫn có một số nền cộng hòa bộ tộc chống lại sự bành trướng ngày càng lan rộng của các nước quân chủ mới ở trung tâm lưu vực sông Hằng. Trong số đó có nền cộng hòa Śākya, và chính từ đây đã ra đời Tất-đạt- đa Cồ-đàm, là con trai của người trị vì. Cha của Ngài là một thành viên của chính thể cầm quyền, và cũng là một chiến binh, và mặc dù xã hội Bà-la-môn truyền thống lúc bấy giờ như đã trình bày ở chương trước vẫn chưa tạo nên tầm ảnh hưởng lớn nào đến khu vực giáp ranh với lưu vực sông Hằng, nhưng khi sống trong xã hội Bà-la-môn, Ngài đã cảm thấy rằng bối cảnh xã hội đương thời, mô tả chính xác nhất, là thuộc về tầng lớp Sát-đế-lợi. Truyền thống sau này, vì chỉ biết đến các nền quân chủ đã lật đổ những nhà nước cộng hòa trước đó, nên đã cho rằng Tất-đạt-đa là “thái tử” và cha của Ngài là “vua”, một điều thật sự không đúng với thời kỳ này.”